Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang kiến nghị điều chỉnh thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện và ưu đãi đầu tư trong Dự thảo Luật Đầu tư (thay thế)
Kỳ họp thứ 10 là kỳ họp cuối năm và cũng là kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá XV (nhiệm kỳ 2021-2026, sẽ khai mạc vào tháng 10/2025. Dự kiến có 47 dự án luật được trình, bàn bạc và thông qua, gồm nhiều dự án luật quan trọng, góp phần thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh; trong đó có dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh được Bộ Tài chính chủ trì xây dựng.
Với tinh thần xây dựng, cầu thị và trách nhiệm cao, góp phần cùng các cơ quan Trung ương xây dựng Luật Đầu tư (thay thế), phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang Nguyễn Hữu Thập vừa ký văn bản số 106/CV-HH trân trọng kính gửi Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Liên đoàn thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang, kiến nghị điều chỉnh thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện và ưu đãi đầu tư trong Dự thảo Luật Đầu tư (thay thế).
.jpg)
Từ thực tiễn sản xuất, kinh doanh, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang đã nêu lên 9 vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp liên quan đến việc chấp thuận chủ trương đầu tư.
1) Trùng lặp thủ tục: Doanh nghiệp đã trúng đấu giá/đã thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất hoặc đã có quy hoạch chi tiết 1/500 vẫn phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư, kéo dài thêm tối thiểu từ 01 năm trở lên, làm tăng chi phí giao dịch mất cơ hội và nản lòng nhà đầu tư.
2) Điều chỉnh chủ trương đầu tư: Thay đổi tiến độ/tăng vốn nhỏ… vẫn phải xin điều chỉnh (Điều 41 Luật Đầu tư 2020), gây mất cơ hội thị trường và giảm tính linh hoạt, mất thời gian tối thiểu từ 06 tháng trở lên.
3) Tiêu chí dự án tác động lớn đến môi trường của Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP đã liệt kê danh mục dự án phải đánh giá tác động môi trường, nhưng nhiều địa phương vẫn áp dụng thêm chấp thuận chủ trương đầu tư, gây chồng chéo.
4) Chuyển nhượng dự án đầu tư: Cơ chế riêng tại Điều 46 Luật Đầu tư 2020 mâu thuẫn logic với Bộ Luật Dân sự 2015; thực tế khiến thời gian chuyển nhượng kéo dài tối thiểu từ 6 tháng trở lên, làm nghẽn thị trường mua bán và sáp nhập doanh nghiệp và dòng vốn.
5) Chấp thuận chủ trương đầu tư với nhà đầu tư trong nước hạn chế quá mức quyền tự do kinh doanh theo Điều 33 Hiến pháp 2013.
6) Mâu thuẫn với Bộ Luật Dân sự 2015 - Luật gốc điều chỉnh giao dịch dân sự, tài sản; dự án đầu tư thực chất là tập hợp tài sản, quyền và nghĩa vụ, nên việc chuyển nhượng phải theo cơ chế dân sự.
7) Tình trạng lạm dụng chấp thuận chủ trương đầu tư để giữ quyền phê duyệt, làm phát sinh chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp như: Thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư hiện đang gây trùng lặp với các luật chuyên ngành (Đất đai, Xây dựng, Môi trường, Phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn), kéo dài thời gian chuẩn bị dự án, tạo gánh nặng hành chính, làm mất cơ hội kinh doanh chấp thuận chủ trương đầu tư không tạo thêm giá trị pháp lý.
8) Thời gian chuẩn bị đầu tư kéo dài, chi phí giải phóng mặt bằng tăng, nhiều dự án lỡ nhịp thị trường.
9) Doanh nghiệp trong nước yếu thế cạnh tranh so với nhà đầu tư nước ngoài.
.jpg)
Từ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang kiến nghị Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành trung ương:
1) Giữ thủ tục chấp thuận đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài.
2) Đối với dự án đầu tư trong nước: xem đó là thủ tục chấp thuận nhà đầu tư (thay vì chấp thuận chủ trương đầu tư), chỉ áp dụng đối với dự án đầu tư có sử dụng nguồn lực từ Nhà nước, ví dụ giao đất để xây dựng sân bay, bến cảng, đường bộ, đường sắt. Dự án nào đã được quy định riêng về thủ tục đầu tư theo luật chuyên ngành thì thực hiện theo luật chuyên ngành. Còn lại bãi bỏ hoàn toàn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư.
3) Nội dung xem xét khi chấp thuận nhà đầu tư (đối với dự án còn phải chấp thuận nhà đầu tư) thật đơn giản: mục tiêu đầu tư; dự kiến thời hạn hoàn thành xây dựng; dự kiến tổng vốn đầu tư.
4) Bỏ thủ tục chuyển nhượng dự án đầu tư: việc chuyển nhượng dự án thực hiện theo quy định pháp luật chuyên ngành (ví dụ bất động sản); còn lại thực hiện theo thủ tục đất đai và dân sự.
5) Bảo đảm thống nhất pháp luật: nếu đất đúng quy hoạch, ngành nghề không cấm, có đánh giá tác động môi trường/giấy phép xây dựng/thẩm duyệt phòng cháy chữa cháy thì được triển khai, không cần chấp thuận chủ trương đầu tư.
6) Cần xác định rõ ranh giới giữa Luật Đầu tư (thay thế) và các luật chuyên ngành để tránh chồng chéo, dẫn tới dự án bị treo, thẩm định nhiều lần.
7) Phải hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc ban hành ngành nghề kinh doanh có điều kiện, loại bỏ những ngành nghề không cần thiết, tránh tái diễn “giấy phép con”.
8) Chính sách ưu đãi đầu tư cần định hướng chiến lược khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn, tập trung vào lĩnh vực đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, công nghệ cao, có tác động lan tỏa về chuỗi giá trị, việc làm và công nghệ; tránh ưu đãi dàn trải, theo phong trào.
Tại Hội thảo “Cập nhật hệ thống luật pháp, chính sách đầu tư - kinh doanh” do Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) tổ chức vào ngày 26/9 vừa qua, với sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo, chuyên gia đến từ Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội, Bộ Tài chính cùng một số cơ quan chức năng của Chính phủ, Chủ tịch HHDN tỉnh Tuyên Quang Nguyễn Hữu Thập đã tham luận trực tiếp với chủ đề: “Điều chỉnh thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện và ưu đãi đầu tư trong Dự thảo Luật Đầu tư thay thế”. Ngày 26/9/2025, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang gửi kiến nghị bằng văn bản (106/CV-HH).
Việc việc tham gia ý kiến vào dự thảo Luật đầu tư (thay thế) và đề nghị bãi bỏ chấp thuận chủ trương đầu tư và điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư với nhà đầu tư trong nước không phải nới lỏng quản lý mà là tái cấu trúc theo hướng hậu kiểm, trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp và gắn trách nhiệm thực hiện theo luật chuyên ngành. Đây là bước đi cụ thể hóa Nghị quyết 66-NQ/TW và 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, khơi thông nguồn lực xã hội, nâng cao niềm tin của doanh nghiệp và nhân dân./.
Truyền thông Hiệp hội